Bệnh viêm âm đạo và liệu pháp chữa trị

Viêm bộ phận sinh dục nữ là một bệnh lý phụ khoa thường gặp ở các chị em. Đa số tất cả các chị em đều phải trải qua viêm âm đạo ít nhất một lần trong đời. Căn bệnh đặc trưng bởi khí hư bất thường, có mùi hôi, hoặc bộ phận sinh dục nữ nhận biết ngứa ngáy, nóng rát.

nguyên do

nhân tố gây nên viêm bộ phận sinh dục nữ chủ yếu có nguồn gốc là các vi sinh vật: vi khuẩn, nấm hoặc động vật nguyên sinh.

- Vi khuẩn: 40-50% các trường hợp viêm âm đạo có mối quan hệ tới vi khuẩn, chính là vi khuẩn kị khí. Các vi khuẩn có liên quan tới viêm bộ phận sinh dục nữ hay gặp: Prevotella, Mobiluncus, Gardnerella vaginalis, Ureaplasma, Mycoplasma.

- Nấm: Nhiễm nấm Candida chiếm 20-25% các trường hợp viêm bộ phận sinh dục nữ, chủ yếu là C. Albicans, tuy nhiên cũng có khả năng là loài Candida không giống.

- Động vật nguyên sinh: Nhiễm Trichomonas chiếm 10-15% các trường hợp viêm bộ phận sinh dục nữ, phổ quát T. Vaginalis.

Một số trường hợp viêm bộ phận sinh dục nữ không phải nhiễm trùng, bao gồm: viêm âm đạo dị ứng, viêm âm đạo kích ứng và viêm teo bộ phận sinh dục nữ. Chỉ có khoảng 5-10% các tình huống viêm âm đạo rơi vào nhóm này. Viêm teo bộ phận sinh dục nữ có nguyên nhân do sự suy yếu nồng độ hormone estrogen trong cơ thể. Viêm bộ phận sinh dục nữ dị ứng/kích ứng có yếu tố từ phản ứng dị ứng hoặc kích ứng do đụng chạm.

triệu chứng

triệu chứng của viêm âm đạo phụ thuộc vào nguyên nhân gây nên căn bệnh.

- Nhiễm khuẩn âm đạo: khí hư lỏng, đồng nhất, có mùi tanh, mức độ có thể tệ hơn sau khi "làm chuyện ấy". Bệnh nhân cũng có thể có không dễ chịu tại vùng chậu.

nhân tố nguy cơ: Nghèo, hút thuốc lá, thụt rửa âm đạo, có quá nhiều người nữ, giao hợp không giữ an toàn, "lâm trận" tình dục đồng giới.

- Nhiễm Candida âm đạo: dịch tiết âm đạo đặc, sệt hoặc vón cục, màu trắng, không mùi. Bệnh nhân cũng có ngứa hoặc rát âm hộ.

nhân tố nguy cơ: lấy thuốc gần đây, phụ nữ mang thai, đái tháo đường thao túng kém, nhiễm HIV/AIDS, sử dụng Corticoid hoặc các kháng sinh ức chế miễn dịch.

- Nhiễm Trichomonas âm đạo: khí hư có bọt, màu vàng hoặc xanh lá cây, mùi hôi. Bệnh nhân cũng có đau tức bộ phận sinh dục nữ.

nhân tố nguy cơ: Nghèo, hút kháng sinh lá, có rất nhiều bạn đời, "yêu" không bảo vệ, mắc các căn bệnh lây qua đường tình dục không giống, uống một số thuốc.

- Viêm teo âm đạo: dịch tiết âm đạo loãng và trong. Bộ phận sinh dục nữ khô. Người mắc bệnh có ngứa ngáy và đau khi quan hệ.

nguyên nhân nguy cơ: nữ giới đã mãn kinh hoặc đang cho con bú, suy hoặc cắt buồng trứng, hóa xạ điều trị trị ung thư, mất cân bằng nội đào thải hoặc miễn dịch, áp dụng thuốc kháng estrogen.

- Viêm bộ phận sinh dục nữ kích ứng: Nóng rát và đau tức.

yếu tố nguy cơ: Xà phòng, băng làm sạch, dụng cụ ngừa thai như bao cao su, màng ngăn hoặc vòng phòng tránh thai, đồ chơi tình dục, những chế phẩm lấy tại chỗ, thụt rửa âm đạo, những thuốc kháng sinh, dạng quần áo.

- Viêm âm đạo dị ứng: tương tự như viêm bộ phận sinh dục nữ kích ứng.

nguyên nhân nguy cơ: Băng rửa ráy, thụt rửa âm đạo, tinh binh, "áo mưa" hoặc màng ngăn latex, một vài chế phẩm sử dụng tại chỗ, một vài kháng sinh, loại quần áo và tiền sử dị ứng.

Các biến chứng của viêm âm đạo có nguy cơ xảy ra bao gồm:

- căn bệnh viêm vùng chậu (PID).

- Đẻ non.

- Vỡ màng ối sớm.

- Trẻ sơ sinh nhẹ cân.

- Viêm nội mạc tử cung sau sinh.

nhận ra

Để có cảm giác nhiễm khuẩn âm đạo, nhuộm gram tìm vi khuẩn hoặc nuôi cấy định danh đạt hiệu quả đáng tin cậy nhất, nhưng thông thường các chuyên gia thường hay dùng tiêu chuẩn Amsel (độ nhạy 70-97% và độ đặc hiệu 90-94% so đối với kỹ thuật nhuộm gram). Những khám hiện đại hơn có khả năng phát hiện được DNA của G. Vaginalis hoặc sialidase trong huyết trắng, có độ nhạy 92-100% và độ đặc hiệu 92-98% so đối với kỹ thuật nhuộm gram, tuy vậy chúng cũng có giá thành cao hơn.

Các tiêu chí của tiêu chuẩn Amsel bao gồm:

- huyết trắng loãng, trắng hoặc vàng, đồng nhất.

- có cảm giác tế bào Clue khi soi tươi huyết trắng dưới kính hiển vi.

- huyết trắng có pH từ 4.5 trở lên khi phết dịch lên giấy quỳ.

- Khi thêm kali hydroxide 10% vào dịch soi tươi xuất hiện có giải phóng mùi tanh.

Nếu bệnh nhân có ít nhất 3/4 tiêu chuẩn hài lòng thì có khả năng phát hiện xác định nhiễm khuẩn bộ phận sinh dục nữ. Một vài địa điểm chăm sóc sức khỏe có khả năng sử dụng bộ các tiêu chuẩn Amsel cải tiến và chặt chẽ hơn và chỉ đòi hỏi 2/4 tiêu chuẩn hài lòng.

với nhiễm nấm Candida âm đạo, chứng bệnh được nhận biết Tùy vào các biểu hiện và biểu hiện lâm sàng kèm theo soi tươi dịch tiết âm đạo dưới kính hiển vi (sử dụng kali hydroxide). Cũng có khả năng lấy test kháng nguyên hoặc đầu dò DNA trong chẩn đoán, với độ nhạy 77-97% và độ đặc hiệu 77-99%. Với nhiễm nấm Candida âm đạo biến chứng, nuôi cấy định danh có khả năng đem tới lợi ích khi cần phải xác định các chủng Candida non-albicans.

Ảnh. Các loài Candida ở độ phóng đại x400. Hình mũi tên là tế bào nấm đang nảy chồi.

Trung tâm làm chủ và ngăn chặn Dịch chứng bệnh (CDC) Hoa Kỳ khuyến nghị uống giải pháp PCR (phản ứng trùng hợp chuỗi) khuếch đại acid nucleic để nhận ra nhiễm trùng roi Trichomonas ở chị em phụ nữ có khả năng cao hoặc có biểu hiện (độ nhạy 95-100%). Nhưng mà do chi phí cao, bác sĩ có khả năng chỉ dùng giải pháp soi tươi dịch tiết âm đạo dưới kính hiển vi áp dụng nước muối (độ nhạy 51-65%). Nuôi cấy định danh cũng cho độ nhạy cao, nhưng mà cần thời gian dài (khoảng 1 tuần) mới cho hiệu quả.

Ảnh. T. Vaginalis ở độ phóng đại x400. Loài trùng roi này có một roi di chuyển và kích cỡ rất lớn hơn bạch cầu một chút (hình mũi tên).

nên nhận thấy phân biệt viêm âm đạo với:

- Lichen xơ hóa.

- Viêm cổ tử cung.

- Nhiễm trùng HSV (Herpes Simplex Virus).

- Nhiễm giun kim.

- Nhiễm trùng lỗ tiểu.

chữa trị

Nhiễm khuẩn âm đạo hay được chữa bằng kháng sinh Metronidazole đường dùng, đặt bộ phận sinh dục nữ hoặc Clindamycin đặt âm đạo. Thời gian trị thường hay là 1 tuần. Không có sự khác biệt đáng kể giữa các phác đồ. Metronidazole có nguy cơ gây ra công dụng không mong muốn lưỡi vị kim dạng và phản ứng cai rượu kiểu Disulfiram. Không áp dụng bất cứ sản phẩm chứa cồn nào trong thời gian chữa trị cũng như 1 ngày sau khi điều trị kết thúc với Metronidazole và 3 ngày sau khi trị kết thúc đối với Tinidazole (do Tinidazole có thời gian bán thải dài hơn). Trong khi đó, Clindamycin được báo cáo có liên quan tới viêm đại tràng giả mạc do Clostridium difficile. Số trường hợp thành công: 80-90%.

Các quy trình cụ thể:

- Metronidazole đường uống, 500 mg/lần, 2 lần/ngày trong 7 ngày.

- Metronidazole gel 0.75% bôi bộ phận sinh dục nữ, 1 lần (5 g)/ngày trong 5 ngày.

- Clindamycin 2% xoa âm đạo, 1 lần (5 g)/ngày trước khi đi ngủ trong 1 tuần.

Các quy trình thay thế:

- Tinidazole đường dùng, 2 g/lần, 1 lần/ngày trong 2 ngày.

- Tinidazole đường uống, 1 g/lần, 1 lần/ngày trong 5 ngày.

- Clindamycin đường dùng, 300 mg/lần, 2 lần/ngày trong 7 ngày.

- Clindamycin đặt âm đạo, 100 mg/lần trước khi đi ngủ trong 3 ngày.

Nhiễm nấm bộ phận sinh dục nữ thường được chữa bằng các thuốc kháng nấm như Fluconazole đường dùng hoặc các kháng nấm lấy đường tại chỗ như Clotrimazole, Miconazole, Terconazole, Butoconazole, Tioconazole và Nystatin. Fluconazole áp dụng đường dùng có khả năng gây nên tương đối nhiều tương tác thuốc kháng sinh do ức chế mạnh enzyme chuyển hóa thuốc hàng đầu CYP3A4 ở gan, cần phải thận trọng khi lấy.

Nhiễm Candida âm đạo không biến chứng:

- Liệu trình ngắn ngày (một liều duy nhất, 1 ngày hoặc 3 ngày) các thuốc kháng nấm lấy đường tại chỗ. Tỷ lệ thành công: 80-90%.

- Fluconazole đường uống 150 mg một liều duy nhất.

Nhiễm Candida âm đạo hậu quả tái phát:

- chữa trị kháng nấm tại chỗ 7-14 ngày.

- Fluconazole đường uống, 100, 150 hoặc 200 mg/ngày vào các ngày 1, 4 và 7 của quy trình.

- điều trị duy trì: Fluconazole đường sử dụng, 100, 150 hoặc 200 mg/tuần trong 6 tháng. 30-50% Người mắc bệnh sẽ tái đi tái lại sau khi ngừng chữa trị duy trì.

Nhiễm Candida âm đạo hậu quả nặng:

- điều trị kháng nấm tại chỗ 7-14 ngày.

- Fluconazole đường dùng, 150 mg/lần, sử dụng hai liều công nghệ nhau 72 giờ.

Nhiễm Candida non-albicans:

- Kháng nấm azole (trừ Fluconazole) đường dùng hoặc áp dụng tại chỗ trong 7-14 ngày: chữa đầu tay.

- Trong trường hợp tái phát: Acid boric 600 mg/lần, 1 lần/ngày trong 2 tuần.

Nhiễm Trichomonas âm đạo được trị bằng Metronidazole hoặc Tinidazole đường áp dụng một liều duy nhất. Người nữ của bệnh nhân cũng nên được trị. Số trường hợp thành công: 84-98% đối với Metronidazole và 92-100% với Tinidazole.

phác đồ cụ thể:

- Metronidazole 2 g hoặc Tinidazole 2 g đường dùng một liều duy nhất.

phác đồ thay thế thế:

- Metronidazole đường sử dụng, 500 mg/lần, 2 lần/ngày trong 1 tuần.

với các trường hợp viêm âm đạo không nhiễm trùng, nên tập trung vào chữa yếu tố.

Viêm teo âm đạo có các phương pháp chữa trị lấy hormone và không sử dụng hormone. Estrogen là hormone được áp dụng trong trị viêm teo bộ phận sinh dục nữ, gồm cả đường lấy tại chỗ và đường uống (nếu bệnh nhân có các dấu hiệu vận mạch). Cần thiết phải ưu tiên áp dụng Estrogen lấy đường tại chỗ. Cần phải chú ý hiểm họa gây huyết khối mao mạch của Estrogen. Phương pháp chữa trị không dùng thuốc gồm có sử dụng các dưỡng chất bôi trơn, duy trì ẩm và khuyến cáo người bệnh giao hợp tình dục.

Các sản phẩm đặt âm đạo chứa dầu có khả năng làm ảnh hưởng đến độ bền của "áo mưa" latex, người mắc bệnh nữ nên được cảnh báo về vấn đề này. Hữu hiệu người bệnh hạn chế giao hợp tình dục trong thời gian điều trị.

đối với bà bầu, việc chữa viêm âm đạo nhiễm trùng là cần thiết phải thiết. Cần lấy kháng sinh theo đường tại chỗ (đặt âm đạo) đối với các người bệnh nhân này để hạn chế ảnh hưởng bất lợi trên đứa con.

thời điểm này, có những chế phẩm trên thị trường uống probiotic (lợi khuẩn) để hỗ trợ điều trị viêm bộ phận sinh dục nữ nhiễm trùng. Các lợi khuẩn được cho là trong quá trình phát triển sẽ ức chế sự tiến triển của các vi sinh vật gây nên bệnh do cạnh tranh về không gian sống và nguồn chất. Thêm vào đó, một vài vi khuẩn có khả năng đào thải acid lactic thông qua chuyển hóa glycogen như Lactobacillus sẽ giúp thường thì hóa pH của huyết trắng và hình thành môi trường bất lợi cho sự phát triển của các vi sinh vật có hại. Nhưng mà, lợi ích của nó trong chữa viêm âm đạo chưa thực sự điển hình và cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để thực hiện rõ câu hỏi này.